Chuyển dịch năng lượng đang trở thành một thách thức lớn đối với ngành điện khí Việt Nam. Tại diễn đàn dầu khí và năng lượng thường niên 2025 với chủ đề “Chuyển dịch năng lượng – tầm nhìn và hành động”, ông Nguyễn Quốc Thập, chủ tịch Hiệp hội Dầu khí Việt Nam, đã nêu lên những khó khăn trong việc huy động điện khí tại các nhà máy nhiệt điện khí LNG. Ông Thập cho biết rằng do giá điện khí cao, việc huy động điện khí tại các nhà máy như Nhơn Trạch 1 và dự án điện khí Lan Tây đang ở mức thấp, đáng kể thấp hơn so với khả năng cung ứng.

Đặc biệt, hai dự án nhiệt điện khí Nhơn Trạch 3 và 4, với quy mô đầu tư lên tới hàng tỉ USD, đã hoàn thành và sẵn sàng phát điện nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc trong việc huy động điện. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do cơ chế huy động điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), nơi là nhà mua tất cả các nguồn điện để bán cho khách hàng, với thứ tự ưu tiên là giá thấp đến cao. Điện khí LNG với mức giá cao không phải là nguồn điện được ưu tiên trong huy động hệ thống điện.

Ông Thập cũng chỉ ra rằng Nghị định 100 của Chính phủ về cơ chế phát triển các dự án nhiệt điện khí đã đề ra các cơ chế như chuyển ngang giá khí sang giá điện. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn nhiều vướng mắc trong vận hành các nhà máy và thu hút đầu tư vào nhiệt điện khí.

Ông Nguyễn Duy Giang, phó tổng giám đốc Tổng công ty Điện lực dầu khí Việt Nam (PV Power), cho rằng một trong những vướng mắc lớn nhất là cơ chế chuyển ngang giá khí vào giá điện. Để giải quyết vấn đề này, ông Giang đề xuất cần có cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa nhà phát điện và nhà mua điện để đảm bảo bao tiêu sản lượng dài hạn. Các nhà đầu tư đang mong muốn có tỉ lệ bao tiêu sản lượng điện tối thiểu dài hạn không thấp hơn 80-90% trong thời gian 15-20 năm.

Để giải quyết bài toán bao tiêu sản lượng, ông Thập cho rằng cần nhìn nhận thị trường đầu ra của điện khí LNG không phải là thị trường bình dân, mà đó là các hộ tiêu thụ công nghiệp, hộ tiêu thụ lớn mong muốn có cam kết dài hạn. Cần phải có cơ chế mua bán điện trực tiếp, bên phát điện đàm phán trực tiếp với bên mua điện, áp dụng với cả các dự án điện khí LNG và các nhà máy năng lượng tái tạo.
Nhu cầu chuyển dịch năng lượng lên tới 135 tỉ USD, nhưng nguồn lực của Nhà nước có hạn, do đó việc có cơ chế để thu hút tư nhân là yêu cầu đặt ra. Tuy nhiên, các chính sách phát triển điện khí vẫn chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư, khi chưa có cơ sở bảo lãnh Chính phủ để bảo lãnh vay vốn các dự án của Nhà nước, chưa có cơ chế bảo lãnh chuyển đổi ngoại tệ.
Tổng kết, chuyển dịch năng lượng đang là một thách thức lớn đối với ngành điện khí Việt Nam. Để thúc đẩy sự phát triển của ngành điện khí, cần có các cơ chế và chính sách phù hợp, bao gồm cơ chế mua bán điện trực tiếp, bảo lãnh Chính phủ cho các dự án và cơ chế bảo lãnh chuyển đổi ngoại tệ. Việc này sẽ giúp thu hút đầu tư, đảm bảo bao tiêu sản lượng dài hạn và đáp ứng nhu cầu chuyển dịch năng lượng của Việt Nam.