nông dân – Thuonghieutieudung.com https://thuonghieutieudung.com Trang thông tin thương hiệu & tiêu dùng Wed, 03 Sep 2025 23:25:02 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/thuonghieutieudung/2025/08/thuonghieutieudung-icon.svg nông dân – Thuonghieutieudung.com https://thuonghieutieudung.com 32 32 Nông dân Việt Nam giảm áp lực mùa vụ nhờ giải pháp công nghệ thu hoạch trái cây https://thuonghieutieudung.com/nong-dan-viet-nam-giam-ap-luc-mua-vu-nho-giai-phap-cong-nghe-thu-hoach-trai-cay/ Wed, 03 Sep 2025 23:24:59 +0000 https://thuonghieutieudung.com/nong-dan-viet-nam-giam-ap-luc-mua-vu-nho-giai-phap-cong-nghe-thu-hoach-trai-cay/

Với hơn 1,3 triệu ha diện tích trồng cây ăn trái, ngành nông nghiệp của Việt Nam đang đối mặt với thách thức lớn trong việc tiêu thụ trái cây, đặc biệt là trong những thời điểm mùa vụ tập trung. Việc đảm bảo chất lượng sản phẩm là quan trọng, nhưng các chuyên gia cũng nhấn mạnh cần có giải pháp để giảm tải áp lực mùa vụ.

Một số chuyên gia nông nghiệp cho rằng sử dụng công nghệ là một hướng đi hiệu quả để giải quyết vấn đề này. Công nghệ có thể giúp nông dân phân bổ thời gian thu hoạch một cách hợp lý, tránh tình trạng ùn ứ và dội chợ trong những thời điểm trái cây chín tập trung.

Hiện nay, một số vùng chuyên canh cây ăn trái đã và đang áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Chẳng hạn, công nghệ tưới nhỏ giọt, công nghệ sử dụng giống cây cho năng suất cao và thời gian thu hoạch dài hơn… Những giải pháp này không chỉ giúp tăng năng suất và chất lượng trái cây mà còn giúp nông dân có thể thu hoạch đều đặn trong cả năm.

Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và tiêu thụ sản phẩm cũng là một hướng đi quan trọng. Nông dân có thể sử dụng các ứng dụng để cập nhật thông tin về thời gian thu hoạch, sản lượng, chất lượng trái cây và kết nối trực tiếp với các doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm.

Nhìn chung, việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất và tiêu thụ trái cây không chỉ giúp nông dân tăng thu nhập mà còn góp phần vào việc phát triển bền vững ngành nông nghiệp của Việt Nam.

]]>
Vĩnh Long: Lão nông ‘đổi đời’ nhờ nuôi chồn hương, lãi 60 triệu đồng/tháng https://thuonghieutieudung.com/vinh-long-lao-nong-doi-doi-nho-nuoi-chon-huong-lai-60-trieu-dong-thang/ Sat, 30 Aug 2025 09:08:10 +0000 https://thuonghieutieudung.com/vinh-long-lao-nong-doi-doi-nho-nuoi-chon-huong-lai-60-trieu-dong-thang/

Ở tỉnh Vĩnh Long, một lão nông đã thành công với mô hình nuôi chồn hương, mang lại thu nhập đáng kể cho gia đình. Ông Nguyễn Văn Tám, 55 tuổi, ngụ xã Mỹ Thuận, đã bắt đầu nuôi chồn hương từ năm 2020, sau khi được giới thiệu về tiềm năng của mô hình này. Ban đầu, gia đình ông tỏ ra e ngại về việc nuôi chồn hương do lo ngại về thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, sau nhiều lần thuyết phục, ông Tám đã quyết định đầu tư vào mô hình này.

Chồn hương mẹ đang nuôi 3 con nhỏ. Ảnh: H.T
Chồn hương mẹ đang nuôi 3 con nhỏ. Ảnh: H.T

Ông Tám cho biết, chồn hương giống được nuôi khoảng 10-12 tháng trước khi được chọn lọc để làm hậu bị hoặc bán thịt. Một con chồn cái có thể đẻ được 2 lứa mỗi năm, với trung bình 3-4 con/lứa. Chồn con được nuôi thêm 4-5 tháng trước khi được xuất bán làm chồn giống. Giá chồn giống dao động từ 4 đến hơn 30 triệu đồng/con, tùy thuộc vào độ tuổi, ngoại hình và giới tính. Chồn thịt đạt trọng lượng hơn 2kg được bán với giá 1,3 triệu đồng/kg, chủ yếu cung cấp cho nhà hàng, quán ăn đặc sản.

Chồn hương trưởng thành trong trại của ông Tám. Ảnh: H.T
Chồn hương trưởng thành trong trại của ông Tám. Ảnh: H.T

Chia sẻ về kinh nghiệm nuôi chồn hương, ông Tám cho biết, trong nửa năm qua, ông đã thu được hơn 200 triệu đồng từ việc bán chồn hương, với lợi nhuận khoảng 60 triệu đồng sau khi trừ chi phí. Với lợi nhuận ổn định, ông đã đầu tư thêm 100 triệu đồng để mở rộng chuồng trại và nâng tổng số lượng chồn lên hơn 100 con. Hiện tại, ông Tám có 100 con chồn, trong đó có 50 con chồn bố mẹ đang mang bầu và sinh sản. Ngoài ra, ông còn trồng 4.000m² chuối xiêm làm thức ăn phụ cho chồn. Khẩu phần hàng ngày của đàn chồn bao gồm cá, cua đồng, mít, chuối…

Nhờ có vườn chuối 4.000m2 nên ông Tám chủ động được nguồn trái cây cho chồn ăn. Ảnh: H.T
Nhờ có vườn chuối 4.000m2 nên ông Tám chủ động được nguồn trái cây cho chồn ăn. Ảnh: H.T

Ông Nguyễn Thanh Vũ, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Mỹ Thuận, đánh giá cao mô hình của ông Tám, không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cho gia đình mà còn được nhiều người dân đến tham quan và học hỏi. Các ngành chức năng cũng hỗ trợ ông Tám trong việc vay vốn và thủ tục chăn nuôi, giúp mô hình phát triển bền vững.

Tương lai, ông Tám tiếp tục mở rộng quy mô và hướng đến xây dựng mô hình khép kín từ sản xuất con giống đến tiêu thụ sản phẩm. Với sự thành công của mô hình nuôi chồn hương, ông Tám hy vọng sẽ giúp nhiều người dân khác trong xã Mỹ Thuận có thể nhân rộng và phát triển kinh tế bền vững. …

]]>
Cô gái dùng TikTok giúp đặc sản vùng quê bán chạy trăm tỷ https://thuonghieutieudung.com/co-gai-dung-tiktok-giup-dac-san-vung-que-ban-chay-tram-ty/ Thu, 28 Aug 2025 17:26:52 +0000 https://thuonghieutieudung.com/co-gai-dung-tiktok-giup-dac-san-vung-que-ban-chay-tram-ty/

Thẩm Đan, một người phụ nữ sinh năm 1987 tại Nam Bình, Phúc Kiến, đã trở thành biểu tượng của sự kiên cường và đổi mới trong lĩnh vực phát triển nông thôn tại Trung Quốc. Cuộc đời của cô đã trải qua nhiều biến động, từ việc kinh doanh thất bại và trở thành ‘bà mẹ đơn thân’ vào năm 2018, đến việc phải chăm sóc con gái và chu cấp cho gia đình. Tuy nhiên, thay vì buông xuôi, Thẩm Đan đã chọn cách đối mặt với khó khăn và tạo ra cơ hội mới cho mình.

Thẩm Đan trồng lúa.
Thẩm Đan trồng lúa.

Cô đã bắt đầu bằng việc chia sẻ cuộc sống thường nhật của mình trên mạng xã hội Douyin (TikTok), nơi cô đã thu hút được lượng lớn fan. Từ việc chia sẻ cảm xúc ban đầu, Thẩm Đan đã chuyển hướng sang giới thiệu đặc sản quê hương, giúp người nông dân địa phương bán được nông sản và cải thiện thu nhập. Với bản năng kinh doanh nhạy bén, Thẩm Đan đã nhận thấy tiềm năng khổng lồ của thương mại điện tử và các nền tảng video ngắn.

Thẩm Đan làm được nhiều việc, từ trồng trọt đến xây dựng, kinh doanh...
Thẩm Đan làm được nhiều việc, từ trồng trọt đến xây dựng, kinh doanh…

Cô đã bắt đầu kể những câu chuyện về nông sản, về cuộc sống của người dân Nam Bình bằng giọng văn giản dị, gần gũi và đầy cảm xúc. Sức hút từ sự chân thật này nhanh chóng lan tỏa, giúp đội ngũ của Thẩm Đan bán được hơn 150 triệu nhân dân tệ giá trị nông sản địa phương chỉ trong vòng một năm. Đến năm 2021, nền tảng của Thẩm Đan đã thu hút hơn 3 triệu người theo dõi, và con số này tiếp tục tăng lên gần 30 triệu người theo dõi trên các nền tảng vào tháng 3/2023.

Thương hiệu nông sản cá nhân của cô đạt tổng doanh thu hơn 70 triệu nhân dân tệ vào năm 2022. Tính tổng doanh số bán nông sản hàng năm từ các sản vật địa phương của Thẩm Đan khoảng 200 triệu nhân dân tệ. Thẩm Đan không chỉ là người bán hàng, cô còn là cầu nối trực tiếp giữa người nông dân và người tiêu dùng, đảm bảo sản phẩm được bán với giá trị xứng đáng, mang lại thu nhập ổn định cho bà con, giúp nuôi sống cả làng.

Bên cạnh việc kinh doanh, Thẩm Đan còn đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao năng lực cho thế hệ trẻ, trong đó có rất nhiều phụ nữ. Cô là đồng sáng lập Học viện cho phụ nữ với Liên đoàn phụ nữ Nam Bình, và tích cực cố vấn và đào tạo thanh niên về kỹ năng thương mại điện tử, tiếp thị số. Thẩm Đan cũng là người quảng bá văn hóa nông thôn đầy tâm huyết.

Cô tin rằng ‘nông thôn là quê hương của chúng ta’, nơi chứa đựng những giá trị truyền thống và nét đẹp bình dị cần được bảo tồn và phát huy. Cô thường xuyên giới thiệu các sản phẩm thủ công, phong tục tập quán, và những câu chuyện đời thường của người dân Nam Bình, giúp công chúng hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống nông thôn.

Những nỗ lực của Thẩm Đan đã được ghi nhận rộng rãi. Cô được vinh danh là một trong 10 thanh niên xuất sắc nhất tỉnh Phúc Kiến vào năm 2021. Cô cũng thường xuyên được mời chia sẻ kinh nghiệm tại các diễn đàn quan trọng, thể hiện vai trò là một người dẫn dắt trong lĩnh vực phát triển nông thôn.

Trong năm 2025, Thẩm Đan tiếp tục mở rộng tầm ảnh hưởng. Công ty của cô đã hợp tác với Viện Nghiên cứu Tiêu chuẩn và Kỹ thuật Kiểm tra Chất lượng Nông nghiệp của Viện Khoa học Nông nghiệp Phúc Kiến để thành lập Trung tâm Phát triển chung Sản phẩm Nông nghiệp Xanh chất lượng cao. Sự hợp tác này nhằm nâng cao tiêu chuẩn chất lượng, an toàn và khả năng truy xuất nguồn gốc của nông sản, đảm bảo sản phẩm ‘xanh, chất lượng cao’.

Với tư cách là Đại biểu Đại hội Đại biểu Nhân dân tỉnh Quảng Đông, Thẩm Đan còn đề xuất ‘Phát huy lợi thế kinh tế số của Quảng Đông, hỗ trợ các nhóm đặc biệt hòa nhập vào kỷ nguyên số’. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nông thôn và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.

Thông qua các hoạt động và đóng góp của mình, Thẩm Đan đã chứng minh rằng sự kiên nhẫn, sáng tạo và lòng nhiệt huyết có thể giúp một người phụ nữ từ một bà mẹ đơn thân trở thành một biểu tượng của sự thành công và đổi mới trong lĩnh vực phát triển nông thôn tại Trung Quốc.

]]>
Nâng cao thu nhập cho người dân nhờ phát triển kinh tế địa phương https://thuonghieutieudung.com/nang-cao-thu-nhap-cho-nguoi-dan-nho-phat-trien-kinh-te-dia-phuong/ Thu, 21 Aug 2025 23:22:21 +0000 https://thuonghieutieudung.com/nang-cao-thu-nhap-cho-nguoi-dan-nho-phat-trien-kinh-te-dia-phuong/

Xã Trung Lý đã và đang đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, với mục tiêu xây dựng và nhân rộng các mô hình kinh tế hiệu quả, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giúp người dân đạt hiệu quả kinh tế cao. Một trong những tấm gương điển hình tiêu biểu trong phát triển kinh tế hộ gia đình là anh Thào A Thái, dân tộc Mông ở bản Tà Cóm.

Người dân xã Thường Xuân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất dưa Kim Hoàng hậu trong nhà màng, nhà lưới mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Người dân xã Thường Xuân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất dưa Kim Hoàng hậu trong nhà màng, nhà lưới mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Anh Thái đã mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật để chuyển hướng sang chăn nuôi trâu bò sinh sản và thương phẩm. Trước đây, anh là hội viên nông dân thuần túy, gắn bó với nương lúa, đồi ngô, quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Tuy nhiên, từ năm 2020, anh Thái đã bắt đầu thay đổi với việc mua 3 cặp trâu bò về nuôi. Những ngày đầu, anh cùng 4 thành viên là lực lượng chính trong gia đình tất bật từ sáng sớm đến tối, chăm sóc đàn vật nuôi như chăm “con nhỏ”. Với tính kiên trì, nhẫn nại, anh Thái chăm chỉ học hỏi kỹ thuật, tích lũy kinh nghiệm trong quá trình chăn nuôi.

Đến nay, gia đình anh Thái đã nhân đàn lên hơn 50 con bò và 20 con trâu, trở thành hộ gia đình có số lượng gia súc nhiều nhất bản Tà Cóm. Để phát triển đàn trâu bò bền vững, anh Thái lựa chọn phương pháp nuôi sinh sản kết hợp với nuôi thương phẩm, căn cứ vào nhu cầu của thị trường để xuất bán theo từng thời điểm phù hợp. Ngoài chăn nuôi trâu bò, anh Thái còn triển khai mô hình trồng rừng, khoanh nuôi trên 15ha rừng sản xuất với các loại cây lấy gỗ như xoan, lát… Từ mô hình kinh tế tổng hợp của mình, sau khi trừ chi phí, mỗi năm gia đình anh Thái thu lãi khoảng 300 triệu đồng.

Không chỉ là gương điển hình trong phát triển kinh tế gia đình, với vai trò người có uy tín, anh Thào A Thái đã tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ cho bà con dân bản cùng phát triển kinh tế. Anh đã hướng dẫn, hỗ trợ kiến thức, kinh nghiệm sản xuất cho 10 gia đình trong bản, giúp đỡ 6 hộ nghèo phát triển sản xuất, vươn lên ổn định cuộc sống.

Thời gian qua, xã Trung Lý đã triển khai nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp hiệu quả, góp phần tạo việc làm, giảm nghèo bền vững cho người dân địa phương. Điển hình như mô hình trồng quế trên diện tích 20ha với 20 hộ tham gia; mô hình điểm trồng “Cây sắn năng suất cao”; mô hình tổ hợp tác chăn nuôi vịt; nuôi gà thương phẩm; mô hình trồng dược liệu, phát triển cây ăn quả, cây đặc sản…

Các xã khác như Xuân Bình, Thượng Ninh, Thanh Phong cũng tập trung tuyên truyền, hướng dẫn Nhân dân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm thay đổi tập quán canh tác, chuyển đổi các mô hình sản xuất, nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế về đất đai ở địa phương. Điển hình như mô hình sản xuất lúa có năng suất, chất lượng cao TBR279, Bắc Thịnh, TBR225, TBR45, Nhị Ưu 986, GS9, GS55… góp phần bảo đảm an ninh lương thực ở địa phương.

Bên cạnh đó, các xã cũng chú trọng chuyển đổi diện tích trồng lúa kém năng suất sang trồng các loại cây có hiệu quả kinh tế cao hơn, được liên kết, bao tiêu sản phẩm, như cam, chanh leo, xoài keo, ổi… áp dụng công nghệ cắt, ghép để cải tạo, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật…

Qua khảo sát cho thấy, còn rất nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp được áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, qua đó góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội, giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số xứ Thanh. Theo kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo định kỳ năm 2024, đến nay tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi của tỉnh giảm 4,43% (từ 11,04% xuống còn 6,61%); tỷ lệ hộ cận nghèo giảm 2,66% (từ 14,01% xuống còn 11,35%).

Nhìn chung, các mô hình kinh tế nông nghiệp hiệu quả đã và đang được nhân rộng tại các địa phương, góp phần giúp người dân tăng thu nhập, vươn lên ổn định cuộc sống. Các mô hình này đã chứng minh rằng, với sự áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, người dân có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao, giảm nghèo bền vững.

]]>
Hành trình trải nghiệm làm nông dân và diêm dân của gia đình Haha ở Quảng Ngãi https://thuonghieutieudung.com/hanh-trinh-trai-nghiem-lam-nong-dan-va-diem-dan-cua-gia-dinh-haha-o-quang-ngai/ Wed, 20 Aug 2025 17:13:24 +0000 https://thuonghieutieudung.com/hanh-trinh-trai-nghiem-lam-nong-dan-va-diem-dan-cua-gia-dinh-haha-o-quang-ngai/

Quảng Ngãi, một mảnh đất duyên hải được thiên nhiên ưu ái với nhiều cảnh quan đẹp và đặc sản nổi tiếng, trong đó có tỏi Lý Sơn – một loại gia vị không thể thiếu trong nhiều món ăn của Việt Nam. Tuy nhiên, để có được những củ tỏi chất lượng, người nông dân ở đây đã phải bỏ ra rất nhiều công sức và kinh phí.

Anh Điệp dẫn dàn cast ra ruộng muối làm việc khi trời chưa hửng nắng - Ảnh: CHỤP MÀN HÌNH
Anh Điệp dẫn dàn cast ra ruộng muối làm việc khi trời chưa hửng nắng – Ảnh: CHỤP MÀN HÌNH

Gia đình Haha đã có một chuyến trải nghiệm đáng nhớ tại Lý Sơn, nơi họ đã cùng nông dân tìm hiểu về nghề trồng tỏi. Quá trình gieo tỏi trên ruộng phải làm hoàn toàn thủ công, từ tạo rãnh trên nền cát đến vùi những tép tỏi xuống và tưới nước để tỏi bắt đầu bén rễ. Cái nắng gay gắt và khắc nghiệt của miền Trung đã khiến người dân phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, trồng từng tép tỏi nhỏ xuống nền cát nóng hổi.

Một thửa ruộng tỏi sau khi gieo sẽ mất đến 4 tháng để chăm sóc. Thu hoạch xong lại phải phơi thêm 1 tháng. Thu nhập trừ đi các chi phí phân bón, nhân công, vốn liếng thì chỉ còn vỏn vẹn 15 triệu. Anh Lộc, một nông dân trồng tỏi ở Lý Sơn, cho biết người dân nơi đây luôn cho rằng tỏi rất “khó ăn”. Không phải vì vị cay nồng đặc trưng, mà vì để trồng ra một ruộng tỏi, họ phải bỏ rất nhiều công sức, kinh phí, mà thu về chẳng được bao nhiêu.

Chú Sơn trải lòng cùng Jun Phạm giữa lúc câu cá - Ảnh: CHỤP MÀN HÌNH
Chú Sơn trải lòng cùng Jun Phạm giữa lúc câu cá – Ảnh: CHỤP MÀN HÌNH

Suốt một buổi sáng trải nghiệm trồng tỏi cùng nông dân ở đây, dàn cast không khỏi khâm phục trước sức chịu đựng phi thường của họ. Dù trời nắng to hay có mệt đến mấy, người nông dân vẫn luôn chăm chỉ, cần mẫn làm việc chẳng quản ngại khó khăn.

Duy Khánh và Bùi Công Nam ngất suốt chuyến đi vì không chịu được cảm giác say sóng - Ảnh: CHỤP MÀN HÌNH
Duy Khánh và Bùi Công Nam ngất suốt chuyến đi vì không chịu được cảm giác say sóng – Ảnh: CHỤP MÀN HÌNH

Bên cạnh nghề trồng tỏi, ruộng muối là một trong những sinh kế quan trọng của người dân Sa Huỳnh, Quảng Ngãi. Để làm được một mẻ muối, diêm dân phải thức từ tờ mờ sáng, gạt nước và phơi nắng để ô muối trở nên khô ráo. Sau đó, họ dùng cả buổi sáng để nện đất cho bề mặt ô rắn chắc hơn.

Một cơn mưa cũng có thể khiến toàn bộ ruộng muối rộng lớn thất thu - Ảnh: CHỤP MÀN HÌNH
Một cơn mưa cũng có thể khiến toàn bộ ruộng muối rộng lớn thất thu – Ảnh: CHỤP MÀN HÌNH

Tuy nhiên, với đặc thù phải phơi lâu dưới ánh nắng mặt trời để hạt muối tách nước, chỉ cần thời tiết thay đổi đột ngột cũng có thể khiến diêm dân trắng tay. Trong Gia đình Haha, ruộng muối mà anh Điệp, Jun Phạm và Bùi Công Nam đang phơi bất ngờ gặp cơn mưa lớn. Sau khi mưa tạnh, muối đang kết tinh bị pha loãng, nước mặn trong ô muối cũng không còn sạch nữa.

Jun Phạm và Duy Khánh thẫn thờ khi thấy cơn mưa lớn trút xuống - Ảnh: CHỤP MÀN HÌNH
Jun Phạm và Duy Khánh thẫn thờ khi thấy cơn mưa lớn trút xuống – Ảnh: CHỤP MÀN HÌNH

Mọi quy trình đều phải làm thủ công lại từ đầu. Hiểu được nỗi vất vả để làm ra một mẻ muối, vì thế khi ngồi trong nhà, dù trời mưa mát mẻ nhưng Jun Phạm vẫn đăm chiêu, lo lắng cho công sức mà diêm dân bỏ ra suốt mấy ngày qua.

Rhymastic - anh hai Thiện toàn diện của Gia đình Haha
Rhymastic – anh hai Thiện toàn diện của Gia đình Haha

Chuyến đi biển đêm của Gia đình Haha đã mang lại cho dàn cast và khán giả những trải nghiệm mới mẻ về cuộc sống bám biển khó khăn của người dân nơi đây. Mỗi chuyến đi biển của ngư dân có thể cách bờ vài chục, thậm chí hàng trăm hải lý. Có những chuyến đi xa đến cả biên giới nước bạn. Với người dân vùng biển, một cuộc đi biển kéo dài cả tuần đến 1-2 tháng đã trở thành chuyện thường tình.

Mỗi chiếc thuyền đầy đủ ngư cụ có thể tốn đến 500-600 triệu, bằng cả gia tài của ngư dân - Ảnh: CHỤP MÀN HÌNH
Mỗi chiếc thuyền đầy đủ ngư cụ có thể tốn đến 500-600 triệu, bằng cả gia tài của ngư dân – Ảnh: CHỤP MÀN HÌNH

Mùa cá ở biển Sa Huỳnh thường rơi vào tháng Giêng đến tháng 3. Những hôm như thế, mỗi đêm thuyền của chú Sơn có thể đánh được đến 4-5 tấn cá cơm. Nghề biển với chú vừa khổ, vừa bạc. Năm nào được mùa thì ngư dân thu về khoảng trăm triệu, năm nào mất mùa chỉ lác đác 60-70 triệu.

Để lo cho gia đình và các con ăn học, không những chú mà các thành viên khác trong gia đình cũng phải kiên trì bám biển đến giờ. Đi ra biển, những hôm trời êm thì vẫn có sóng lớn, những hôm trời giông thuyền lại càng nhấp nhô và chòng chành hơn. Dàn cast và ekip Gia đình Haha chỉ trải nghiệm 1 đêm đã nể phục sức chịu đựng và sự kiên cường của chú Sơn và ngư dân nơi đây.

]]>
Cần Thơ: Nông dân lập khu du lịch sinh thái miệt vườn, thu 300 triệu/năm https://thuonghieutieudung.com/can-tho-nong-dan-lap-khu-du-lich-sinh-thai-miet-vuon-thu-300-trieu-nam/ Sat, 16 Aug 2025 22:10:20 +0000 https://thuonghieutieudung.com/can-tho-nong-dan-lap-khu-du-lich-sinh-thai-miet-vuon-thu-300-trieu-nam/

Ông Trần Văn Dũng, một nông dân tại xã Nhơn Ái, TP Cần Thơ, đã thực hiện một bước chuyển đổi quan trọng trong việc quản lý vườn cây ăn trái của mình. Trước đây, vườn cây của ông Dũng tập trung trồng cam sành và chanh không hạt, nhưng việc sản xuất gặp phải khó khăn do sâu bệnh và giá cả không ổn định. Sau khi trừ chi phí cho phân thuốc và các hoạt động sản xuất, thu nhập của gia đình ông chỉ đủ để trang trải cuộc sống hàng ngày.

Với tinh thần dám nghĩ, dám làm, ông Dũng đã quyết định chuyển đổi mô hình sản xuất của mình sang hướng du lịch sinh thái vườn. Quyết định này không chỉ giúp ông Dũng tìm ra hướng đi mới cho mảnh vườn của mình mà còn đóng góp vào sự phát triển du lịch địa phương. Hiện nay, vườn của ông Dũng đã trở thành một điểm đến hấp dẫn cho du khách, không chỉ bởi nhiều loại cây ăn trái đa dạng mà còn có các hoạt động giải trí như câu cá, bơi xuồng, thưởng thức các loại bánh dân gian và đặc sản đồng quê.

Trung bình mỗi ngày, vườn du lịch sinh thái của ông Dũng đón khoảng 200 du khách đến tham quan. Với mức thu nhập ước tính khoảng 300-400 triệu đồng mỗi năm, ông Dũng không chỉ đảm bảo được cuộc sống gia đình mà còn tạo việc làm cho khoảng 20 lao động địa phương. Những người lao động này nhận được thu nhập ổn định từ 4-5 triệu đồng mỗi tháng, góp phần vào sự phát triển kinh tế của cộng đồng địa phương.

Thành công của ông Dũng với mô hình du lịch sinh thái vườn đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều nông hộ khác trong khu vực. Việc áp dụng các mô hình sản xuất, kinh doanh mới không chỉ giúp họ làm giàu bền vững từ chính mảnh đất quê hương mà còn đóng góp vào sự đa dạng và phong phú của du lịch địa phương. Mô hình của ông Dũng là một ví dụ điển hình về việc chuyển đổi hướng đi trong sản xuất nông nghiệp và góp phần xây dựng hình ảnh du lịch miệt vườn đặc trưng của TP Cần Thơ.

Thông qua các hoạt động du lịch sinh thái, ông Dũng không chỉ bảo tồn và phát huy giá trị của vườn cây ăn trái mà còn tích cực tham gia vào việc quảng bá hình ảnh, vẻ đẹp và tiềm năng du lịch của địa phương. Từ đó, ông hy vọng sẽ thu hút thêm nhiều du khách đến thăm, trải nghiệm và tìm hiểu về văn hóa, con người, cũng như phong cảnh tuyệt đẹp của vùng đất mình.

Chiêm ngưỡng những vườn đến mệnh của nông dân không chỉ ở Cần Thơ mà còn nhiều tỉnh thành khác tại Việt Nam, việc áp dụng mô hình du lịch sinh thái đã mở ra nhiều cơ hội mới cho các nông hộ trong việc phát triển kinh tế và quảng bá du lịch địa phương.

]]>
Nông dân Hà Nội làm giàu nhờ sản xuất nông nghiệp theo chuỗi https://thuonghieutieudung.com/nong-dan-ha-noi-lam-giau-nho-san-xuat-nong-nghiep-theo-chuoi/ Tue, 05 Aug 2025 20:40:09 +0000 https://thuonghieutieudung.com/nong-dan-ha-noi-lam-giau-nho-san-xuat-nong-nghiep-theo-chuoi/

Hà Nội đang đẩy mạnh quá trình chuyển đổi phương thức sản xuất nông nghiệp từ tự phát sang sản xuất theo chuỗi giá trị, với các đầu vào, đầu ra rõ ràng và hợp đồng cụ thể. Thay vì tự bán sản phẩm thông qua thương lái, nhiều hộ nông dân đang canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP và có sự hợp tác với doanh nghiệp để đảm bảo đầu ra ổn định.

Tại xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, hàng trăm hộ nông dân đã áp dụng mô hình sản xuất lúa chất lượng cao theo tiêu chuẩn VietGAP, với sự hỗ trợ kỹ thuật của Trung tâm Khuyến nông. Các giống lúa chất lượng cao như Bắc thơm số 7, Đài thơm 8, và nếp cái hoa vàng đang trở thành nguồn nguyên liệu ổn định cho các bếp ăn tập thể và trường học tại Thủ đô. Ông Đỗ Văn Kiên, Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp Tam Hưng, cho biết: “Chúng tôi duy trì 250 ha nếp cái hoa vàng và gần 500 ha các giống lúa chất lượng khác. Mỗi năm, chúng tôi cung cấp khoảng 700 tấn gạo. Từ khi liên kết với doanh nghiệp, bà con yên tâm làm theo quy trình, không còn cảnh được mùa mất giá như trước”. Các hộ nông dân tại đây đã thấy được lợi ích của việc sản xuất theo chuỗi giá trị và đang tiếp tục mở rộng diện tích canh tác.

Tương tự, tại phường Tùng Thiện, hợp tác xã Phúc Lâm đang mở hướng mới với cây dược liệu. Trên diện tích 3 ha, năng suất đạt 8,5 tấn/ha, sau chế biến thu về 1,2 tấn dược liệu khô. Trừ chi phí, lợi nhuận khoảng 225 triệu đồng/ha mỗi vụ. Mô hình này đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ nông dân tham gia.

Tuy nhiên, nhiều mô hình liên kết vẫn dừng lại ở thí điểm, chưa có sự lan tỏa. Một phần vì thiếu quy hoạch vùng sản xuất đủ lớn, phần khác đến từ sự đứt gãy hợp đồng khi giá thị trường tăng, nông dân phá hợp đồng, bán tự do. Điều này cho thấy sự cần thiết của việc hoàn thiện cơ chế và chính sách hỗ trợ để khuyến khích nông dân tham gia vào các mô hình liên kết.

Để phát triển mô hình chuỗi giá trị, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Mạnh Phương cho biết: “Trong thời gian tới, các mô hình liên kết hiệu quả sẽ được lựa chọn, đánh giá và nhân rộng theo hướng chính quy, bài bản. Không thể phát triển chuỗi nếu vùng nguyên liệu phân mảnh, sản xuất không đồng đều. Chúng tôi sẽ phối hợp các quận, huyện quy hoạch lại vùng trồng, mở rộng diện tích đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và VietGAP, tiến tới đủ sản lượng cho xuất khẩu”. Điều này thể hiện sự quyết tâm của chính quyền Hà Nội trong việc hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp phát triển mô hình chuỗi giá trị, hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu quả và giá trị sản xuất nông nghiệp.

]]>
Mận hồng Sân Tiên lên các chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch nhờ làm ăn theo khoa học https://thuonghieutieudung.com/man-hong-san-tien-len-cac-chuoi-cua-hang-thuc-pham-sach-nho-lam-an-theo-khoa-hoc/ Sun, 03 Aug 2025 11:24:39 +0000 https://thuonghieutieudung.com/man-hong-san-tien-len-cac-chuoi-cua-hang-thuc-pham-sach-nho-lam-an-theo-khoa-hoc/

Nông dân Trần Văn Phục tại Cù Lao Dung, Cần Thơ, đã thành công trong việc tạo ra thương hiệu mận hồng Sân Tiên nổi tiếng, với giá bán lên tới 230.000 đồng/kg. Thành công này đến từ sự kiên trì lai tạo và xây dựng vùng nguyên liệu hữu cơ rộng 40 ha để sản xuất mận hồng chất lượng cao.

Ông Phục tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn VietGAP và hướng tới chứng nhận hữu cơ
Ông Phục tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn VietGAP và hướng tới chứng nhận hữu cơ

Sau khi lai tạo thành công giống mận hồng Sân Tiên vào năm 2021, ông Phục đã bắt đầu trồng đại trà và xây dựng vùng nguyên liệu quy mô lớn. Để đảm bảo chất lượng và tính bền vững của sản phẩm, ông đã chọn phương pháp sản xuất hữu cơ. Ông Phục đã áp dụng một quy trình chăm sóc chặt chẽ, sử dụng phân hữu cơ và giảm thiểu việc sử dụng phân hóa học. Mỗi trái mận được bao trái hai lần để cách ly hoàn toàn với thuốc bảo vệ thực vật. Nhờ đó, mận hồng Sân Tiên có chất lượng cao, với màu hồng đậm, trái lớn, giòn, ngọt, thơm nhẹ và ráo nước.

Mận hồng Sân Tiên đã được xuất bán tại nhiều chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch ở Hà Nội, TP.HCM, Vĩnh Long, Đồng Tháp… với giá bán lên đến 230.000 đồng/kg. Để đảm bảo chất lượng sản phẩm, ông Phục cũng đầu tư đầy đủ thiết bị sau thu hoạch. Hiện tại, ông đang hoàn thiện hồ sơ để cấp chứng nhận hữu cơ quốc gia và phát triển thêm sản phẩm chế biến sâu từ mận.

Ông Phục đầu tư thiết bị sau thu hoạch như kho lạnh, hệ thống rửa trái cây, quy trình phân loại, đóng gói chuyên nghiệp
Ông Phục đầu tư thiết bị sau thu hoạch như kho lạnh, hệ thống rửa trái cây, quy trình phân loại, đóng gói chuyên nghiệp

Không chỉ tập trung vào sản xuất, ông Phục còn quy hoạch vườn mận 40 ha trở thành điểm du lịch trải nghiệm nông nghiệp. Mô hình mận hồng Sân Tiên là hướng đi đúng trong việc phát triển nông nghiệp sạch kết hợp du lịch. Ông Phục tin tưởng rằng với sự kiên định và nỗ lực, sản phẩm mận hồng Sân Tiên sẽ phát triển bền vững và mang lại giá trị kinh tế cao.

Giống mận Sân Tiên trồng khoảng 14 tháng bắt đầu cho trái
Giống mận Sân Tiên trồng khoảng 14 tháng bắt đầu cho trái

Với thành công của thương hiệu mận hồng Sân Tiên, ông Phục đã góp phần vào việc nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp tại địa phương. Việc xây dựng vùng nguyên liệu hữu cơ rộng 40 ha cũng giúp ông Phục tạo ra một nguồn cung ổn định cho thị trường. Thông qua việc kết hợp sản xuất hữu cơ và du lịch, ông Phục hy vọng sẽ mang lại một trải nghiệm mới mẻ cho khách tham quan và tạo ra một mô hình phát triển bền vững cho ngành nông nghiệp tại Cù Lao Dung, Cần Thơ.

Vườn mận hồng Sân Tiên rộng 40 ha của ông Phục
Vườn mận hồng Sân Tiên rộng 40 ha của ông Phục

Nông dân Trần Văn Phục , Cù Lao Dung, Cần Thơ

Mận hồng Sân Tiên đóng hộp bán ra thị trường cao cấp
Mận hồng Sân Tiên đóng hộp bán ra thị trường cao cấp
]]>
Khánh Hòa: Chuyển đổi số giúp nông sản tiếp cận thị trường nhanh hơn https://thuonghieutieudung.com/khanh-hoa-chuyen-doi-so-giup-nong-san-tiep-can-thi-truong-nhanh-hon/ Fri, 01 Aug 2025 14:52:40 +0000 https://thuonghieutieudung.com/khanh-hoa-chuyen-doi-so-giup-nong-san-tiep-can-thi-truong-nhanh-hon/

Chuyển đổi số đang trở thành một giải pháp hiệu quả giúp nông sản tỉnh Khánh Hòa tiếp cận thị trường nhanh hơn, giảm phụ thuộc vào thương lái và nâng cao giá trị. Đây là một trong những hướng đi quan trọng để thúc đẩy kinh tế – xã hội vùng cao, hướng tới phát triển bền vững trong giai đoạn tới.

Quy trình sản xuất chả cá tại phường Bắc Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa
Quy trình sản xuất chả cá tại phường Bắc Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa

Trong thời gian gần đây, nhiều đặc sản của tỉnh Khánh Hòa đã và đang từng bước khẳng định vị thế trên môi trường số. Việc ứng dụng thương mại điện tử không chỉ mang lại hiệu quả rõ rệt ở những khu vực trung tâm mà còn ở các địa phương xa trung tâm đô thị. Tại phường Bắc Nha Trang, xã Vĩnh Lương, thành phố Nha Trang, bà Nguyễn Thị Thu Huyền, chủ thương hiệu chả cá An Food, đã sớm triển khai bán hàng qua mạng xã hội và sàn thương mại điện tử. Khách hàng chủ yếu của cơ sở này là người tiêu dùng nội tỉnh và khách du lịch trong nước. Từ quy trình đóng gói đến vận chuyển, mọi công đoạn đều được chú trọng để giữ độ tươi ngon và tiện lợi cho người mua. Sản phẩm được giao tận nơi, phục vụ nhu cầu sử dụng ngay hoặc làm quà biếu.

Tỉnh Khánh Hòa có nhiều nông sản có giá trị kinh tế cao tại miền núi
Tỉnh Khánh Hòa có nhiều nông sản có giá trị kinh tế cao tại miền núi

Nhờ thương mại điện tử, sản phẩm của cơ sở đã tiếp cận được nhiều đối tượng khách hàng hơn, tăng doanh thu. Bà Huyền cho biết, khách hàng rất chú trọng đến chất lượng sản phẩm và thường gọi điện đặt hàng. Bên em sẽ đóng gói nông sản tươi và giao tận nơi, thường là đến khách sạn hoặc địa chỉ khách yêu cầu.

Ở các địa phương miền núi như Khánh Sơn, Khánh Vĩnh, người dân cũng đã tiếp cận các nền tảng trực tuyến. Thời điểm dịch bệnh Covid-19, nhiều hộ dân đã biết thực hiện livestream bán hàng. Đến nay, sản phẩm của bà con đã được đưa lên các sàn thương mại điện tử, tiêu thụ thuận lợi hơn, mang lại thu nhập cao hơn. Ông Nguyễn Văn Bính, Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Khánh Sơn, cho biết thương mại điện tử mang lại nhiều lợi ích. Không tốn mặt bằng, giảm chi phí kho bãi, không cần qua trung gian nên tiết kiệm hoa hồng. Ngoài ra còn tiết kiệm quảng cáo, vận chuyển, và có thể chủ động đào tạo bà con bán hàng qua mạng xã hội.

Nhiều loại nông sản của tỉnh Khánh Hòa đã được đưa lên các sàn thương mại điện tử
Nhiều loại nông sản của tỉnh Khánh Hòa đã được đưa lên các sàn thương mại điện tử

Từ những tín hiệu tích cực, xã miền núi Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa, đã xác định chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm trong dự thảo văn kiện Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2025-2030. Đây không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là giải pháp để tháo gỡ điểm nghẽn trong tiêu thụ nông sản, nâng cao thu nhập và phát triển kinh tế – xã hội bền vững ở vùng cao.

Chả cá là sản phẩm được nhiều du khách lựa chọn khi đến du lịch Khánh Hòa
Chả cá là sản phẩm được nhiều du khách lựa chọn khi đến du lịch Khánh Hòa

Thực tế cho thấy, khi được triển khai đúng hướng, chuyển đổi số rút ngắn khoảng cách giữa người sản xuất và thị trường. Qua các nền tảng số, các loại nông sản như sầu riêng, mít nghệ, chuối… tiếp cận trực tiếp người tiêu dùng và doanh nghiệp, hạn chế phụ thuộc vào thương lái, đồng thời góp phần xây dựng thương hiệu bền vững. Đảng bộ xã Khánh Sơn đề ra mục tiêu đến năm 2030, tỷ lệ hộ khá, hộ giàu tại địa phương tăng từ 1,4% lên 6%, trong đó nhiều hộ có thu nhập trên 200 triệu đồng/năm. Theo đó, xã Khánh Sơn sẽ tập trung vào các đột phá như nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm thông qua ứng dụng khoa học – kỹ thuật, cập nhật thông tin thị trường, hỗ trợ người dân sử dụng công cụ số trong sản xuất và tiêu thụ.

Ông Bùi Hoài Nam, Bí thư Đảng ủy xã Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa, khẳng định trong chuyện chuyển đổi số, điều đáng lo nhất là khả năng tiếp cận của người dân. Vì vậy, công tác tuyên truyền, hướng dẫn là rất quan trọng. Cần đẩy mạnh các hoạt động kết nối cung – cầu, tổ chức diễn đàn, kết nối giao thương, để bà con có thêm cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ bền vững.

Hội Nông dân các cấp tỉnh Khánh Hòa đã đồng hành hỗ trợ bà con chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa, từng bước hình thành vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi chủ lực, nâng cao năng suất và thu nhập. Ông Lê Quốc Toàn, Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Khánh Hòa, đánh giá nhiều sản phẩm như sầu riêng, bưởi da xanh… đã có mặt trên sàn thương mại điện tử, góp phần mở rộng thị trường và nâng cao giá trị. Huấn luyện cho bà con livestream bán hàng trên mạng xã hội. Khi bà con đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử, không chỉ bán hàng mà còn nắm bắt được tín hiệu thị trường – người tiêu dùng cần gì, mẫu mã nào được ưa chuộng. Từ đó điều chỉnh sản xuất phù hợp, bán được nhiều hơn, giá trị cao hơn.

Chuyển đổi số bước đầu giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm thuận lợi hơn, đồng thời thay đổi tư duy từ manh mún sang sản xuất có kế hoạch, phù hợp nhu cầu thị trường. Đây chính là con đường đưa nông sản miền núi Khánh Hòa ra thị trường lớn, hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại và bền vững.

]]>
Bắc Giang: Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã phát huy hiệu quả, trở thành động lực phát triển kinh tế nông thôn https://thuonghieutieudung.com/bac-giang-chuong-trinh-moi-xa-mot-san-pham-ocop-da-phat-huy-hieu-qua-tro-thanh-dong-luc-phat-trien-kinh-te-nong-thon/ Wed, 21 Dec 2022 15:48:38 +0000 https://www.thuonghieutieudung.com/?p=1926

DNTH: Sau hơn 4 năm triển khai, chương trình OCOP trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã mang lại hiệu quả tích cực, sản phẩm trở thành hàng hóa có uy tín, thương hiệu, từng bước tham gia chuỗi sản phẩm quốc gia, góp phần tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn khu vực, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

 

 

Người dân hưởng ứng tích cực, OCOP thành phong trào sản xuất lan tỏa

Từ khi triển khai đến nay, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tỉnh Bắc Giang đã mang lại hiệu quả tích cực, trở thành phong trào sản xuất có sức lan tỏa ở khu vực nông thôn, tạo động lực mới. , khơi dậy tiềm năng sản xuất nông nghiệp, tác động phát triển kinh tế – xã hội khu vực nông thôn. Qua đó góp phần thực hiện có hiệu quả nhóm tiêu chí “kinh tế và tổ chức sản xuất” trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới.

Theo ông Nguyễn Thái Trường – Phó Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Giang, thời gian qua, chương trình OCOP trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã nhận được sự quan tâm sâu sắc của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và toàn hệ thống. . Các chính trị gia và nhân dân đồng tình hưởng ứng, tích cực tham gia. Chương trình đã thu hút nhiều đối tượng là HTX với 76/97 đối tượng tham gia chiếm 87,35%; nhiều thanh niên có năng lực, nhiệt huyết khởi nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm tham gia chương trình.

Đến nay, tỉnh Bắc Giang có 180 sản phẩm OCOP được công nhận 3 sao trở lên (42 sản phẩm 4 sao và 138 sản phẩm 3 sao) trong đó có 1 sản phẩm dịch vụ du lịch cộng đồng và điểm tham quan du lịch. và 1 sản phẩm tiềm năng 5 sao trình Hội đồng đánh giá xếp hạng quốc gia.

z3960399033570_f86c04bc9c10976f1c99726261322ebe
Hiện tỉnh Bắc Giang có 180 sản phẩm OCOP được công nhận từ 3 sao trở lên.

Đáng chú ý, đến năm 2022, có 8 sản phẩm đạt 4 sao được UBND tỉnh Bắc Giang công nhận đợt 1 gồm: Mỳ ngũ sắc và mỳ Chũ Xuân Trường (xã Nam Dương, huyện Lục Ngạn); Giò Gà (HTX Nông nghiệp Xanh Yên Thế); Nụ hoa Sâm đất khô (HTX sản xuất và tiêu thụ Sâm núi Nam Liên Chung, Tân Yên); Giò heo thảo mộc, lạp xưởng heo thảo mộc, lạp xưởng heo thảo mộc Bình Minh (HTX Nông nghiệp hữu cơ Bình Minh, xã Danh Thắng, huyện Hiệp Hòa) và sản phẩm vải thiều Lục Ngạn của HTX Nông nghiệp sản xuất và kinh doanh dịch vụ tổng hợp Hồng Xuân có tiềm năng đạt 5 -ngôi sao OCOP. Ngoài ra, năm nay UBND tỉnh cũng công nhận 22 sản phẩm OCOP 3 sao.

2
Sản phẩm vải thiều Lục Ngạn của HTX Sản xuất nông nghiệp và kinh doanh dịch vụ tổng hợp Hồng Xuân là sản phẩm có triển vọng đạt OCOP 5 sao.

Kết quả chương trình OCOP tại các huyện miền núi, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống của tỉnh Bắc Giang thời gian qua cũng có nhiều khả quan. Tại các huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế, tổng số sản phẩm OCOP được đánh giá, phân loại đạt 69/180, chiếm 38,3%. Điển hình như huyện Lục Ngạn có 26 sản phẩm (16 4 sao, 10 3 sao). Huyện Yên Thế có 25 sản phẩm (4 sản phẩm đạt 4 sao, 21 sản phẩm đạt 3 sao). Từ đó, tạo ra các vùng sản xuất như: Gà đồi ở Yên Thế; vải thiều, bưởi, cam tại huyện Lục Ngạn.

Những năm qua, tỉnh đã hỗ trợ hơn 100 lượt HTX, doanh nghiệp, chủ thể với khoảng 350 lượt sản phẩm OCOP tham gia hội chợ, triển lãm trong tỉnh như Quảng Ninh, Lào. Cái, Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hòa Bình, Nha Trang… Một số điểm giới thiệu, quảng bá sản phẩm OCOP tại các quận, huyện, siêu thị lớn và sàn thương mại điện tử.

Những người tham gia chương trình đã được hỗ trợ đào tạo nâng cao nhận thức. Tỉnh cũng đã áp dụng các cơ chế, chính sách hỗ trợ người sản xuất bổ sung các nội dung khác về chất lượng, bao bì, nhãn mác, đảm bảo đúng yêu cầu của bộ tiêu chí.

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình triển khai thực hiện, một số địa phương trên địa bàn tỉnh còn gặp những khó khăn nhất định. Nhận thức về chương trình OCOP ở một số địa phương, người sản xuất chưa rõ ràng, ngại được tư vấn để hoàn thiện hồ sơ chương trình. Cán bộ quản lý chương trình ở cơ sở hầu hết là kiêm nhiệm. Mặc dù đã tham gia tập huấn nhưng do nội dung chương trình mới, đa dạng nên việc hiểu chưa đầy đủ, nhất là nội dung hoàn thành sản phẩm.

Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh tuy có nhiều sản phẩm đặc sản, tiêu biểu và có tiềm năng phát triển thành sản phẩm OCOP nhưng nhiều sản phẩm chưa xây dựng được thương hiệu, sức cạnh tranh chưa cao. Sản phẩm chủ yếu qua sơ chế, chưa nhiều sản phẩm qua chế biến sâu. Việc hình thành chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm còn ít. Sản phẩm du lịch cộng đồng chưa phong phú, hấp dẫn.

Ngoài ra, Bộ tiêu chí đánh giá, phân loại sản phẩm theo Quyết định số 1048/QĐ-TTg và Quyết định số 781/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ chưa bao hàm hết các nội dung đánh giá, phân loại sản phẩm. . Việc kiểm tra, giám sát chất lượng sản phẩm OCOP sau khi được công nhận còn hạn chế.

Phát huy lợi thế, xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm OCOP

Để nâng cao hiệu quả, chất lượng Chương trình OCOP cùng với khắc phục những khó khăn, hạn chế, thời gian tới, tỉnh Bắc Giang tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức để toàn xã hội hiểu rõ mục đích, tư tưởng. ý nghĩa của chương trình, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm. Qua đó thúc đẩy sản xuất, tạo điều kiện, động lực để người sản xuất mạnh dạn đầu tư, phát triển các sản phẩm có lợi thế của từng địa phương. Hướng chủ thể phát triển sản phẩm của mình bằng niềm tự hào về quê hương.

Tiến hành đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ và các đối tượng tham gia sản xuất. Thực hiện các cơ chế, chính sách của Trung ương và của tỉnh.

Trong đó, phát huy lợi thế vốn có là địa phương giàu tiềm năng phát triển kinh tế – xã hội với 27 làng nghề đã được UBND tỉnh công nhận; 52 sản phẩm chủ lực, đặc trưng, tiềm năng và hàng trăm sản phẩm địa phương. Tỉnh tiếp tục tập trung phát triển các sản phẩm đặc trưng, có tiềm năng; sản phẩm có lợi thế so sánh, sản phẩm làng nghề gắn với du lịch. Phát triển đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ theo hướng nâng cao chất lượng, đưa chương trình đi vào chiều sâu, tạo giá trị gia tăng lớn, có khả năng cạnh tranh cao và có khả năng xuất khẩu.

Để tăng sức cạnh tranh và truyền thông, quảng bá sản phẩm, tỉnh cũng tăng cường hỗ trợ các chủ thể xây dựng thương hiệu, truy xuất nguồn gốc, xây dựng website cơ sở; cải tiến mẫu mã, bao bì, nhãn mác theo hướng sáng tạo, có bản sắc riêng.

3
Thời gian tới, tỉnh Bắc Giang sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, trưng bày sản phẩm OCOP.

Cùng với đó là củng cố và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh (ưu tiên phát triển hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa) để sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có lợi thế, có khả năng sản xuất hàng hóa, dịch vụ. cạnh tranh theo hướng liên kết sản xuất.

Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, trưng bày các sản phẩm đặc trưng của tỉnh tại các sự kiện, hội chợ, triển lãm nhằm quảng bá sản phẩm, giúp các nhà sản xuất tăng cường tìm kiếm đối tác. mở rộng thị trường. Hỗ trợ xây dựng các điểm, trung tâm bán hàng kết nối sản phẩm chủ lực, đặc trưng, tiềm năng với thị trường trong nước và thế giới.

]]>