Nghiên cứu – Thuonghieutieudung.com https://thuonghieutieudung.com Trang thông tin thương hiệu & tiêu dùng Sat, 20 Sep 2025 10:27:31 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/thuonghieutieudung/2025/08/thuonghieutieudung-icon.svg Nghiên cứu – Thuonghieutieudung.com https://thuonghieutieudung.com 32 32 Não bộ tập trung nhìn vào đâu khi đánh giá cơ thể người khác? https://thuonghieutieudung.com/nao-bo-tap-trung-nhin-vao-dau-khi-danh-gia-co-the-nguoi-khac/ Sat, 20 Sep 2025 10:27:28 +0000 https://thuonghieutieudung.com/nao-bo-tap-trung-nhin-vao-dau-khi-danh-gia-co-the-nguoi-khac/

Một nghiên cứu gần đây đã ứng dụng công nghệ theo dõi mắt để khám phá cách con người nhìn và đánh giá cơ thể người khác. Kết quả cho thấy sự chú ý tập trung nhiều nhất vào ngực và thân mình khi hình thành ấn tượng về một người. Nghiên cứu này, được công bố trên tạp chí Behavioral Sciences, đã cung cấp những hiểu biết mới về các mẫu hình視覺 mà con người sử dụng khi đánh giá cơ thể.

Các nhà nghiên cứu đã tuyển dụng 32 người tham gia, chủ yếu là sinh viên đại học, để tham gia vào một nghiên cứu về cách họ đánh giá sự hấp dẫn, sức khỏe và tuổi trẻ của các mô hình nam và nữ khác nhau. Những mô hình này được tạo ra bằng công cụ trực tuyến, được tiêu chuẩn hóa về chiều cao nhưng khác nhau về trọng lượng cơ thể để mô phỏng các hạng mục gầy, cân nặng thấp, cân nặng cao, thừa cân và béo phì.

Khi những người tham gia xem hình ảnh kỹ thuật số của các mô hình, thiết bị theo dõi mắt đã ghi lại nơi và thời gian họ nhìn vào các bộ phận khác nhau của cơ thể. Kết quả cho thấy ngực và eo nhận được nhiều sự chú ý nhất và thời gian xem lâu nhất, trong khi đùi và chân dưới nhận được ít nhất. Những người tham gia có xu hướng nhìn lâu hơn và thường xuyên hơn vào các mô hình nam hơn là mô hình nữ.

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng bộ phận cơ thể nhận được nhiều sự chú ý đã thay đổi theo kích thước cơ thể. Ở chỉ số khối cơ thể thấp hơn, con người dành nhiều thời gian hơn để nhìn vào eo, trong khi ở trọng lượng cao hơn, cái nhìn của họ chuyển hướng nhiều hơn đến ngực. Sự chú ý đến đầu tăng lên khi chỉ số khối cơ thể tăng lên, có thể phản ánh mối liên hệ giữa cân nặng và tuổi tác.

Các loại đánh giá xã hội khác nhau cũng tinh vi ảnh hưởng đến hành vi nhìn. Khi những người tham gia đánh giá tuổi trẻ, họ có xu hướng nhìn nhiều hơn vào đầu, so với khi họ đánh giá sự hấp dẫn hoặc sức khỏe. Điều này có ý nghĩa khi khuôn mặt mang lại nhiều tín hiệu視覺 liên quan đến tuổi tác. Điểm đánh giá cho sức khỏe dẫn đến tập trung nhiều hơn vào ngực và phần eo, khu vực liên quan đến phân phối mỡ nhìn thấy và cơ bắp.

Khi nói đến điểm đánh giá thực tế, những người tham gia đánh giá mức độ cân nặng khỏe mạnh thấp nhất là hấp dẫn và khỏe mạnh nhất. Điểm đánh giá tuổi trẻ, trái lại, đạt đỉnh cao nhất đối với cơ thể nhẹ nhất – những cơ thể được phân loại là gầy. Điều này có thể phản ánh mối liên hệ văn hóa và tiến hóa giữa sự gầy, tuổi trẻ và tiềm năng sinh sản.

Nghiên cứu cũng chỉ ra một số khác biệt trong cách những người tham gia đánh giá cơ thể nam và nữ. Mô hình nam gầy được đánh giá thấp hơn đáng kể về sự hấp dẫn và sức khỏe so với mô hình nữ gầy. Điều này có thể phản ánh cách cơ bắp thấp, thường đi kèm với cân nặng thấp, bị nhìn nhận tiêu cực ở nam giới.

Các nhà nghiên cứu đề xuất rằng các nghiên cứu trong tương lai nên bao gồm hỗn hợp người tham gia cân bằng hơn về giới tính và độ tuổi. Họ cũng đề xuất khám phá cách hình ảnh cơ thể và kinh nghiệm của mọi người có thể định hình đánh giá của họ về người khác. Các nghiên cứu trong môi trường tự nhiên hơn, chẳng hạn như sử dụng thiết bị theo dõi mắt có thể đeo trong khi quan sát mọi người ở nơi công cộng, cũng có thể giúp xác nhận liệu các mẫu quan sát trong phòng thí nghiệm có phản ánh hành vi trong thế giới thực hay không.

Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc mới về cách con người sử dụng tín hiệu視覺 để đánh giá người khác, và có thể có ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, từ tâm lý học đến truyền thông. Để biết thêm thông tin về nghiên cứu này, bạn có thể truy cập vào trang web của Đại học Portsmouth hoặc đọc thêm về các nghiên cứu liên quan trên ScienceDirect.

]]>
Chuột mang thai tiếp xúc với thành phần cơ bản trong vape có con với hộp sọ nhỏ hơn https://thuonghieutieudung.com/chuot-mang-thai-tiep-xuc-voi-thanh-phan-co-ban-trong-vape-co-con-voi-hop-so-nho-hon/ Sun, 17 Aug 2025 09:40:21 +0000 https://thuonghieutieudung.com/chuot-mang-thai-tiep-xuc-voi-thanh-phan-co-ban-trong-vape-co-con-voi-hop-so-nho-hon/

Một nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra rằng những con chuột mang thai tiếp xúc với thành phần cơ bản của hầu hết các loại nước vape có thể sinh ra những chú chuột con với hộp sọ nhỏ hơn và hẹp hơn. Phát hiện này gây ra nhiều lo ngại, đặc biệt là khi ‘vapor’ trong thí nghiệm này không chứa bất kỳ hóa chất nào khác ngoài chất mang, không bao gồm cả nicotine. Điều này cho thấy ngay cả vape không chứa nicotine cũng có thể không an toàn, đặc biệt là đối với phụ nữ mang thai.

Mice who were exposed to the 30/70 mixture had noticeably shorter noses. (Richlak et al., PLOS One, 2025)
Mice who were exposed to the 30/70 mixture had noticeably shorter noses. (Richlak et al., PLOS One, 2025)

Nghiên cứu, do nhà giải phẫu James Cray từ Trường Cao đẳng Y tế Đại học Tiểu bang Ohio dẫn đầu, nhằm mục đích xác định cơ sở cho các tác động của chất mang lên cơ thể. Điều này cho phép các nhà nghiên cứu trong tương lai có thể thêm các thành phần khác của nước vape, như nicotine, vào chất mang này và xác định được tác động của từng chất.

Most vape fluids contain a mixture of propylene glycol and glycerol as a carrier. (Artjom Kissler/Getty Images)
Most vape fluids contain a mixture of propylene glycol and glycerol as a carrier. (Artjom Kissler/Getty Images)

Các nhà nghiên cứu đã chuẩn bị hai công thức cơ bản của nước vape plain từ propylene glycol và glycerol. Một công thức chứa hỗn hợp 50/50 của propylene glycol và glycerol, trong khi công thức khác có tỷ lệ 30/70. Những con chuột mang thai đã được tiếp xúc với vape hits của một trong hai công thức hoặc không khí tươi như một biện pháp kiểm soát, với tỷ lệ một lần mỗi phút trong bốn giờ mỗi ngày, trong suốt thai kỳ khoảng 20 tuần của chúng. Kết quả là 21 lứa và 140 chuột con.

Sau 14 ngày sinh, chuột con đã được giết chết, hộp sọ của chúng được đo chi tiết và quét để tái tạo 3D. Mặc dù nhóm nghiên cứu đã mong đợi công thức 30/70 sẽ có ít tác động tiêu cực đến sự phát triển hộp sọ và khuôn mặt hơn công thức 50/50, nhưng kết quả lại hoàn toàn ngược lại. So với các nhóm khác, chuột con của những con chuột mẹ tiếp xúc với chất lỏng 30/70 trong khi mang thai có hộp sọ và khuôn mặt nhỏ hơn đáng kể, đo cả về chiều rộng và chiều dài, và mũi ngắn hơn.

Nhóm tiếp xúc với hỗn hợp 30/70 cũng có trọng lượng cơ thể thấp hơn đáng kể so với các nhóm khác, mặc dù vẫn trong phạm vi bình thường đối với chuột ở độ tuổi này. Việc xác định tác động sức khỏe của vape rất phức tạp. Vì lý do đạo đức, không thể thực hiện loại thử nghiệm này trực tiếp trên người; các thí nghiệm trên mô hình động vật được coi là đạo đức và tiết kiệm thời gian hơn, nhưng kết quả của chúng không phải lúc nào cũng có thể ngoại suy ra sức khỏe con người.

Ngoài ra, sự thiếu hụt quy định thị trường có nghĩa là nội dung của mỗi vape có thể thay đổi rộng rãi. Việc cách ly các tác động của từng thành phần có thể giúp người dân đưa ra quyết định sáng suốt hơn khi mua vape. Điều này đặc biệt quan trọng khi vape đã được chứng minh, trong một số trường hợp, có một số lợi ích y tế, như giúp người dân cai thuốc lá.

Đối với hiện tại, việc cách ly từng biến số là cách duy nhất để bắt đầu nhìn thấy qua khói mù. ‘Đây là một nghiên cứu nhỏ nói về khả năng vape không chứa nicotine không an toàn’, Cray nói. ‘Và đó là một dấu hiệu cho thấy chúng ta có lẽ nên nghiên cứu các sản phẩm không chứa nicotine cũng như nghiên cứu các sản phẩm có chứa nicotine’.

Nghiên cứu này đã được công bố trên tạp chí PLOS One.

]]>
Hệ thống theo dõi con người bằng Wi-Fi đạt độ chính xác 95% https://thuonghieutieudung.com/he-thong-theo-doi-con-nguoi-bang-wi-fi-dat-do-chinh-xac-95/ Tue, 05 Aug 2025 07:39:55 +0000 https://thuonghieutieudung.com/he-thong-theo-doi-con-nguoi-bang-wi-fi-dat-do-chinh-xac-95/

Các nhà nghiên cứu tại Italy đã phát hiện ra một phương pháp mới để tận dụng sự biến dạng tín hiệu Wi-Fi, cho phép tạo ra một loại nhận dạng sinh trắc học độc đáo. Công nghệ này, được gọi là ‘WhoFi’, hoạt động như một loại dấu vân tay kỹ thuật số, sử dụng mạng Wi-Fi để theo dõi và nhận diện cá nhân dựa trên cách cơ thể người tương tác với tín hiệu Wi-Fi xung quanh.

Nhóm nghiên cứu từ Đại học La Sapienza ở Rome đã phát triển hệ thống này, có thể tạo ra nhận dạng sinh trắc học độc đáo dựa trên biến dạng tín hiệu do cơ thể con người gây ra khi di chuyển qua không gian phủ sóng bởi các mạng Wi-Fi khác nhau. Theo nghiên cứu, hệ thống WhoFi có thể tìm đúng người với độ chính xác lên đến 95,5% sử dụng bộ dữ liệu công khai NTU-Fi.

Phương pháp của họ dựa trên kỹ thuật gọi là Thông tin trạng thái kênh (CSI), ghi lại cách tín hiệu Wi-Fi thay đổi khi chúng truyền qua môi trường vật lý. CSI bao gồm dữ liệu về cả biên độ và pha truyền tải điện từ. Những thay đổi tín hiệu này đủ đặc trưng để phục vụ như một loại dấu vân tay kỹ thuật số, đặc biệt khi được phân tích bởi mạng neuron sâu.

WhoFi không phụ thuộc vào điện thoại hay thiết bị đeo trên người. Thay vào đó, cơ thể người có thể tạo ra một mẫu đặc trưng trong tín hiệu Wi-Fi đủ để nhận diện. Công nghệ này hứa hẹn thay thế công cụ giám sát truyền thống như camera và có thể được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Với khả năng theo dõi và nhận diện cá nhân dựa trên biến dạng tín hiệu Wi-Fi, WhoFi mở ra nhiều tiềm năng ứng dụng trong lĩnh vực an ninh, giám sát và thậm chí là trong các thiết kế thành phố thông minh. Tuy nhiên, cũng như bất kỳ công nghệ mới nào, việc ứng dụng rộng rãi WhoFi cũng đặt ra những vấn đề về quyền riêng tư và bảo mật thông tin mà cần được giải quyết.

Để biết thêm thông tin về công nghệ này, bạn có thể tham khảo bài báo nghiên cứu của nhóm nghiên cứu từ Đại học La Sapienza ở Rome.

]]>