Xã Trung Lý đã và đang đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, với mục tiêu xây dựng và nhân rộng các mô hình kinh tế hiệu quả, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giúp người dân đạt hiệu quả kinh tế cao. Một trong những tấm gương điển hình tiêu biểu trong phát triển kinh tế hộ gia đình là anh Thào A Thái, dân tộc Mông ở bản Tà Cóm.

Anh Thái đã mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật để chuyển hướng sang chăn nuôi trâu bò sinh sản và thương phẩm. Trước đây, anh là hội viên nông dân thuần túy, gắn bó với nương lúa, đồi ngô, quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Tuy nhiên, từ năm 2020, anh Thái đã bắt đầu thay đổi với việc mua 3 cặp trâu bò về nuôi. Những ngày đầu, anh cùng 4 thành viên là lực lượng chính trong gia đình tất bật từ sáng sớm đến tối, chăm sóc đàn vật nuôi như chăm “con nhỏ”. Với tính kiên trì, nhẫn nại, anh Thái chăm chỉ học hỏi kỹ thuật, tích lũy kinh nghiệm trong quá trình chăn nuôi.
Đến nay, gia đình anh Thái đã nhân đàn lên hơn 50 con bò và 20 con trâu, trở thành hộ gia đình có số lượng gia súc nhiều nhất bản Tà Cóm. Để phát triển đàn trâu bò bền vững, anh Thái lựa chọn phương pháp nuôi sinh sản kết hợp với nuôi thương phẩm, căn cứ vào nhu cầu của thị trường để xuất bán theo từng thời điểm phù hợp. Ngoài chăn nuôi trâu bò, anh Thái còn triển khai mô hình trồng rừng, khoanh nuôi trên 15ha rừng sản xuất với các loại cây lấy gỗ như xoan, lát… Từ mô hình kinh tế tổng hợp của mình, sau khi trừ chi phí, mỗi năm gia đình anh Thái thu lãi khoảng 300 triệu đồng.
Không chỉ là gương điển hình trong phát triển kinh tế gia đình, với vai trò người có uy tín, anh Thào A Thái đã tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ cho bà con dân bản cùng phát triển kinh tế. Anh đã hướng dẫn, hỗ trợ kiến thức, kinh nghiệm sản xuất cho 10 gia đình trong bản, giúp đỡ 6 hộ nghèo phát triển sản xuất, vươn lên ổn định cuộc sống.
Thời gian qua, xã Trung Lý đã triển khai nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp hiệu quả, góp phần tạo việc làm, giảm nghèo bền vững cho người dân địa phương. Điển hình như mô hình trồng quế trên diện tích 20ha với 20 hộ tham gia; mô hình điểm trồng “Cây sắn năng suất cao”; mô hình tổ hợp tác chăn nuôi vịt; nuôi gà thương phẩm; mô hình trồng dược liệu, phát triển cây ăn quả, cây đặc sản…
Các xã khác như Xuân Bình, Thượng Ninh, Thanh Phong cũng tập trung tuyên truyền, hướng dẫn Nhân dân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm thay đổi tập quán canh tác, chuyển đổi các mô hình sản xuất, nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế về đất đai ở địa phương. Điển hình như mô hình sản xuất lúa có năng suất, chất lượng cao TBR279, Bắc Thịnh, TBR225, TBR45, Nhị Ưu 986, GS9, GS55… góp phần bảo đảm an ninh lương thực ở địa phương.
Bên cạnh đó, các xã cũng chú trọng chuyển đổi diện tích trồng lúa kém năng suất sang trồng các loại cây có hiệu quả kinh tế cao hơn, được liên kết, bao tiêu sản phẩm, như cam, chanh leo, xoài keo, ổi… áp dụng công nghệ cắt, ghép để cải tạo, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật…
Qua khảo sát cho thấy, còn rất nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp được áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, qua đó góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội, giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số xứ Thanh. Theo kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo định kỳ năm 2024, đến nay tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi của tỉnh giảm 4,43% (từ 11,04% xuống còn 6,61%); tỷ lệ hộ cận nghèo giảm 2,66% (từ 14,01% xuống còn 11,35%).
Nhìn chung, các mô hình kinh tế nông nghiệp hiệu quả đã và đang được nhân rộng tại các địa phương, góp phần giúp người dân tăng thu nhập, vươn lên ổn định cuộc sống. Các mô hình này đã chứng minh rằng, với sự áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, người dân có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao, giảm nghèo bền vững.