Trang chủ Tiêu điểm Đạo đức kinh doanh và thương hiệu doanh nghiệp

Đạo đức kinh doanh và thương hiệu doanh nghiệp

bởi Linh

Doanh nghiệp: Trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, bên cạnh vấn đề lợi nhuận, doanh nghiệp cần quan tâm đến đạo đức kinh doanh và xây dựng thương hiệu. . Bài viết phân tích mối quan hệ giữa đạo đức kinh doanh và thương hiệu doanh nghiệp, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp để doanh nghiệp phát triển thương hiệu thông qua việc xây dựng đạo đức kinh doanh.

 

 

Đạo đức kinh doanh và thương hiệu doanh nghiệp
Minh họa – Thacogroup.vn.

Sau hơn 35 năm kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước ngày càng đi vào chiều sâu. Trước những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống, Đảng ta coi trọng việc phát triển tư duy lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn trong nước, đồng thời học hỏi, tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Từ Đại hội VII đến nay, Đảng ta ngày càng xác định rõ mô hình kinh tế tổng quát, mục tiêu chung và hệ thống đường lối, quan điểm có ý nghĩa chỉ đạo giải quyết hàng loạt mối quan hệ cơ bản trong nền kinh tế. kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,… bảo đảm thắng lợi sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, sự phát triển bền vững của đất nước phụ thuộc rất nhiều vào việc giải quyết hài hòa, hợp lý các mối quan hệ lớn mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ hiện nay đề ra. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã được xác định. Trong đó, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là một trong những mối quan hệ cơ bản, phản ánh trình độ và chất lượng phát triển bền vững của đất nước.

Cương lĩnh chỉ rõ: “Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” (1) . Quan điểm này tiếp tục được Đại hội XII xác định là một trong chín mối quan hệ lớn cần giải quyết và đặc biệt giải quyết một bước: “Tăng cường thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình. tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân”(2).

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng xác định văn hóa trở thành khâu đột phá chiến lược: “Phát huy các giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển của dân tộc, tinh thần yêu nước, tự hào, tự lực tự cường và lòng nhân ái, đoàn kết và đồng thuận xã hội; xây dựng môi trường và đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, hội nhập quốc tế; nêu cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức xã hội, sống và làm việc theo pháp luật” (3) .

Như vậy, Đảng ta khẳng định nhất quán quan điểm tăng trưởng kinh tế phải kết hợp chặt chẽ, đồng bộ với phát triển văn hóa; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Quan điểm đó vừa là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, vừa là sự tiếp thu những thành tựu của nhân loại, đồng thời xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời kỳ mới.

Vì vậy, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, trong đó có mối quan hệ giữa phát triển doanh nghiệp và xây dựng đạo đức kinh doanh hiện nay là vấn đề cấp bách, có ý nghĩa lý luận và lý luận. vừa có ý nghĩa thiết thực, vừa hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện, hướng tới con người và vì con người.

2. Đạo đức kinh doanh thực ra đã được bàn đến từ lâu, dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy khái niệm “đạo đức kinh doanh” chưa được sử dụng nhưng những quy tắc, chuẩn mực, trách nhiệm đạo đức trong hoạt động kinh doanh đã được hình thành cùng với lịch sử văn minh của nhân loại.

Đạo đức kinh doanh là một loại đạo đức nghề nghiệp, tuy nhiên, do gắn liền với yếu tố kinh doanh và lợi nhuận nên đạo đức kinh doanh có những đặc thù riêng. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan điểm về vấn đề đạo đức kinh doanh.

Phillip V. Lewis khẳng định: “Đạo đức kinh doanh là tất cả các quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc luật pháp đưa ra các hướng dẫn về hành vi đạo đức và tính trung thực (của một tổ chức). ) trong những trường hợp nhất định” (4) .

Ferrels và John Fraedrich định nghĩa: “Đạo đức kinh doanh bao gồm các nguyên tắc và tiêu chuẩn cơ bản chi phối hành vi trong thế giới kinh doanh. Tuy nhiên, việc đánh giá một hành vi cụ thể là đúng hay sai, có đạo đức hay không sẽ do nhà đầu tư, người lao động, khách hàng, các bên liên quan, hệ thống pháp luật,… cũng như cộng đồng quyết định” (5) .

Như vậy, đạo đức kinh doanh không chỉ thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội mà còn thể hiện triết lý kinh doanh, giá trị cốt lõi của doanh nghiệp, đồng thời là cách để doanh nghiệp xây dựng thương hiệu của mình.

Đạo đức kinh doanh có nguồn gốc sâu xa. Trong cuốn sách Đạo đức Tin lành và Tinh thần của Chủ nghĩa Tư bản, Max Weber đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa đức tin và hoạt động chung của con người, bao gồm cả kinh doanh. Theo ông, sự hình thành chủ nghĩa tư bản gắn liền với nền tảng đạo đức đề cao các giá trị và sự cống hiến của doanh nhân. Niềm tin rằng sự tận tâm với công việc và trách nhiệm với xã hội sẽ giúp doanh nhân được Thượng đế chứng giám và sẽ được lên Thiên đường là động lực tinh thần để doanh nghiệp hoạt động tốt. Nhiều tỷ phú trên thế giới sau khi kinh doanh thành công đã quyên góp rất nhiều tài sản của mình để làm từ thiện, tạo điều kiện cho những người kém may mắn hơn họ.

Trên thực tế, đạo đức kinh doanh của doanh nhân có tác động tích cực đến việc hình thành môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp nói riêng và đất nước nói chung. . Trong đại dịch Covid-19, doanh nghiệp hình thành được văn hóa tốt, có đạo đức kinh doanh sẽ tạo nền tảng vững chắc để vượt qua khó khăn, đồng thời xây dựng thương hiệu. Sự giúp đỡ người nghèo, những người đang ở tuyến đầu chống dịch của các tổ chức, doanh nghiệp và sự hy sinh vì lợi ích quốc gia của doanh nghiệp đã để lại ấn tượng tốt đẹp, từ đó trở thành cơ sở để xây dựng thương hiệu. thương hiệu cho doanh nghiệp.

Công ty TNHH Metran hỗ trợ máy thở phục vụ công tác chống dịch, Công ty CP Sữa Việt Nam (Vinamilk) hỗ trợ sản phẩm sữa cho bệnh viện, Công ty Vũ Trụ Xanh sáng chế máy ATM gạo, Công ty ABC Bakery sản xuất bánh mì thanh long giải cứu nông sản… là những ví dụ cụ thể, gần gũi, minh chứng cho sức mạnh của văn hóa doanh nghiệp trong thời kỳ dịch bệnh vừa qua. Ngược lại, những trường hợp vi phạm của Công ty Việt Á hay Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) là bài học cảnh báo về việc lợi dụng dịch bệnh để kiếm tiền, đi ngược lại đạo đức kinh doanh sẽ hủy hoại uy tín của Việt Nam. tín dụng của cá nhân và doanh nghiệp như thế nào.

Hiện nay, thương hiệu của doanh nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng, là tài sản vô hình có giá trị lớn, đảm bảo cho sự thành công của doanh nghiệp. Xây dựng thương hiệu mang lại nhiều lợi ích như: khả năng tiếp cận thị trường dễ dàng và rộng lớn hơn; tạo cơ hội chiếm lĩnh thị trường cho các thương hiệu mạnh. Hàng hóa có thương hiệu nổi tiếng có thể bán với giá cao hơn so với hàng hóa cùng loại có thương hiệu nhỏ. Ngoài ra, một thương hiệu mạnh sẽ giúp tăng doanh số bán hàng bằng cách quảng bá và phổ biến trải nghiệm của người tiêu dùng.

Thương hiệu nổi tiếng không chỉ tạo ra những thuận lợi nhất định cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh, cung ứng dịch vụ mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư, gia tăng mối quan hệ hợp tác. Khi đã xây dựng được thương hiệu nổi tiếng, các nhà đầu tư sẽ không còn e ngại khi bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, góp phần hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh. hình hàng hóa, doanh nghiệp. Ví dụ về các vụ thu hồi sản phẩm Samsung Galaxy Note 7 gần đây cho thấy doanh nghiệp sẵn sàng thu hồi sản phẩm lỗi, bồi thường và xin lỗi khách hàng. Đó là cách doanh nghiệp vừa giữ gìn thương hiệu, vừa thể hiện trách nhiệm xã hội.

Đạo đức kinh doanh là cần thiết đối với các thương hiệu, nhất là trong bối cảnh các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để xây dựng và bảo vệ thương hiệu của mình. Nhiều ví dụ cho thấy doanh nghiệp đã tổ chức nhiều hoạt động cộng đồng, xã hội, cam kết bảo vệ môi trường hay hỗ trợ tài chính cho các chương trình nhân đạo vì mục tiêu xây dựng thương hiệu. Chẳng hạn, Công ty Vinamilk gây Quỹ sữa Vươn cao Việt Nam, Tập đoàn Viettel tài trợ chương trình Trái tim cho em, Tập đoàn Vin Group thành lập Quỹ Trái tim nhân ái…… Đây là những hoạt động thể hiện đạo đức kinh doanh, đồng thời góp phần xây dựng thương hiệu.

“Đạo đức là yếu tố vô hình nhưng có hệ quả cụ thể…”, “lợi nhuận và đạo đức đi đôi với nhau, đạo đức kinh doanh là lợi thế cạnh tranh”(6). Thực hành đạo đức kinh doanh là để đảm bảo lợi ích của khách hàng, doanh nghiệp và xã hội, vì vậy xây dựng đạo đức kinh doanh cũng là một cách để xây dựng thương hiệu.

Các doanh nghiệp Việt Nam đang đi theo các quy tắc của các doanh nghiệp trên thế giới. Bên cạnh cạnh tranh về chất lượng, thương hiệu ngày càng trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã tập trung nguồn lực cho việc xây dựng thương hiệu để dần bắt kịp xu hướng toàn cầu trong việc đầu tư vào các giá trị vô hình trong doanh nghiệp.

Năm 2016, tổ chức đánh giá thương hiệu Brand Finance đã xếp Vinamilk là thương hiệu dẫn đầu trong Top 10 thương hiệu lớn nhất Việt Nam với tổng giá trị thương hiệu khoảng 1,01 tỷ USD. Tiếp đến là Viettel Telecom với giá trị thương hiệu ước tính 973 triệu USD. PVN đứng vị trí thứ 3 với giá trị thương hiệu là 564 triệu USD. Đánh giá này sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam ý thức hơn trong việc xây dựng và duy trì thương hiệu của chính mình.

Đối với doanh nghiệp, lợi nhuận là mục tiêu quan trọng. Tuy nhiên, chạy theo lợi nhuận trong kinh doanh không có nghĩa là doanh nghiệp bỏ qua các chuẩn mực, giá trị, nguyên tắc hoạt động và chất lượng sống của cộng đồng. Chỉ khi doanh nghiệp tôn trọng các giá trị đạo đức của cộng đồng, tuân theo các chuẩn mực của xã hội, từ đó hình thành nên thương hiệu – uy tín thì hoạt động kinh doanh của họ mới thực sự hiệu quả. Nhiều ví dụ cho thấy, khi một doanh nghiệp chỉ chạy theo lợi nhuận mà không quan tâm đến hậu quả đạo đức đối với cộng đồng, doanh nghiệp đó sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí dẫn đến phá sản. Vì vậy, xây dựng thương hiệu doanh nghiệp phải xác định đạo đức kinh doanh là nền tảng của các giá trị, là một phần không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh. Để doanh nghiệp phát triển bền vững, đạo đức kinh doanh phải thực sự được áp dụng trong mọi mối quan hệ giữa doanh nghiệp với đối tác, khách hàng và toàn xã hội.

3. Ở Việt Nam, nhận thức về thực hiện đạo đức kinh doanh trong xây dựng thương hiệu của các doanh nghiệp chưa thực sự đầy đủ dẫn đến tình trạng vi phạm đạo đức kinh doanh ở các mức độ khác nhau. Để xây dựng thương hiệu, doanh nghiệp cần thiết lập đạo đức kinh doanh trong mọi lĩnh vực hoạt động, trong đó tập trung vào các vấn đề sau:

Thứ nhất, đạo đức kinh doanh phải được thể hiện trong triết lý kinh doanh của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có đặc thù riêng nên có những triết lý kinh doanh khác nhau. Tuy nhiên, triết lý kinh doanh cần có một nguyên tắc chung, đó là tôn trọng các giá trị đạo đức trong kinh doanh. Lãnh đạo doanh nghiệp, nhất là người đứng đầu cần thấm nhuần những nguyên tắc này, từ đó trở thành động lực dẫn dắt doanh nghiệp thực hiện.

Thứ hai, doanh nghiệp cần xây dựng một bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp thống nhất để cụ thể hóa những vấn đề chung trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong đó cần nêu rõ yêu cầu thực hiện đạo đức của doanh nghiệp; cam kết và trách nhiệm của doanh nghiệp với chính quyền, người lao động và cộng đồng; đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm mà nhân viên phải thực hiện đối với đồng nghiệp, lãnh đạo, khách hàng; và giải pháp cho các vấn đề liên quan đến đạo đức trong doanh nghiệp.

Thứ ba, thực hiện quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong doanh nghiệp, tổ chức các buổi đào tạo hướng dẫn nhân viên xử lý vấn đề, không lúng túng khi có vấn đề phát sinh. Doanh nghiệp có thể thành lập bộ phận riêng về vấn đề xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp hoặc cử cán bộ chuyên trách phụ trách các nội dung liên quan.

Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 nhấn mạnh: “Doanh nghiệp phải nêu cao tinh thần tự hào dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật, thực hiện liêm chính trong kinh doanh; xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; cạnh tranh và hợp tác lành mạnh, đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh”.

Như vậy, Chính phủ đã xác định doanh nhân, doanh nghiệp có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Trong thế giới hội nhập và cạnh tranh ngày càng gay gắt, đạo đức kinh doanh đã trở thành yếu tố tạo nên sự khác biệt, để lại dấu ấn của một doanh nghiệp đối với cộng đồng và khách hàng. Đạo đức kinh doanh và thương hiệu của doanh nghiệp có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, bổ sung cho nhau. Trong quá trình hoạt động của mình, doanh nghiệp nhận thức rõ ràng sự gắn bó hữu cơ này để xây dựng văn hóa doanh nghiệp, tạo động lực phát triển bền vững của chính doanh nghiệp. Sự phát triển của doanh nghiệp nói chung và văn hóa doanh nghiệp nói riêng là tiền đề cơ bản đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước.

_________________

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.73.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.271.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, ti, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr.221-222.

(4), (5) Viện Triết học Việt Nam và Viện Triết học Trung Quốc: Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Đạo đức trong kinh doanh”, Hà Nội, 12/2012, tr.108, 108.

(6) Trịnh Duy Huy: Về vai trò của đạo đức kinh doanh và xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay, Tạp chí triết học, số 2 (120), tháng 4-2001, tr.42-45.

Người giới thiệu:

1. Đỗ Thị Kim Hoa: Xây dựng đạo đức kinh doanh – Cơ sở thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, Tạp chí triết học, số 10 (221), tháng 10/2009, tr.80-84.

2. Đỗ Thị Phi Hoài: Văn hóa doanh nghiệp, NXB Tài chính, Hà Nội, 2009.

3. Nguyễn Thị Lan Hương: Đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp – Dưới góc độ lý luận, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 8-2013, tr.20-26.

4. Nguyễn Phương Lan: Văn hóa đạo đức trong kinh doanh, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 340-2012, tr.3-6.

5. Dương Thị Liễu: Văn hóa kinh doanh và một số giải pháp xây dựng văn hóa kinh doanh Việt Nam, Tạp chí Triết học, số 6 (169), tháng 6/2005, tr.54-59.

6. Dương Thị Liễu: Văn hóa kinh doanh, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2013.

7. Dương Thị Liễu: Sự cần thiết xây dựng văn hóa doanh nhân Việt Nam và đạo đức kinh doanh, Kỷ yếu Hội thảo “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân Việt Nam vì sự phát triển bền vững”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức, 2016.

8. Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020.

Theo Việt Nam Hội Nhập

Có thể bạn quan tâm